Chương 2: Du Nhập Vào Việt Nam Qua Các Giai Đoạn Hình Thành và Phát Triển

A. NGHĨA BINH THÁNH THỂ (1929-1965)
Năm 1929, hai linh mục dòng Xuân Bích (Saint Sulpice) là Leon Paliard (cha Lý) và Paul Urureau (cha Đoán) được cử sang Đông Dương tìm nơi thuận tiện để mở Đại Chủng Viện và phát động “Đạo Binh Thánh Thể” ở Đông Dương và giúp đỡ công việc truyền giáo, nên đã mang Croisade Eucharistique vào Việt Nam. Đồng thời cha P. Depaulis (cha Hương) ở địa phận Hà Nội thấy kết quả tốt đẹp của Nghĩa Binh Thánh Thể, nên cha đã khuyến khích các học sinh trường Hoàng Nguyên biên thư cho các học sinh trường nhà Chung Hà Nội (sau là trường Dũng Lạc) nói về lợi ích của Hội Nghĩa Binh Thánh Thể và xin thành lập tại Bắc Việt.
(Đạo Binh Thánh Giá hay Thập Tự Quân, Việt Nam không có liên hệ gì đến đoàn Thập Tự Quân hay “Đạo Binh” của thời trung cổ, mà chỉ có những đoàn quân thiện nguyện chiến đấu vì chính nghĩa để giành độc lập cho đất nước khi bị ngoại xâm. Những đoàn quân hào hùng đó được gọi là Nghĩa Binh, cũng có thời gọi là Nghĩa Quân. Các vị chỉ huy hay những anh hùng độc lập thì được gọi là Nghĩa Sĩ.
Thế nên, thay vì chuyển dịch từ ngữ "Đạo Binh" (Croisade), cha ông chúng ta, với sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, đã dùng một danh xưng tuyệt vời:" Hội Nghĩa Binh Thánh Thể", danh xưng đó không những là một cái áo mới cho thân xác cũ, mà là một thân thể mới với một tinh thần mới. Chỉ nghe danh xưng cũng đủ biết được hai nội dung chính: Bảo vệ Hội Thánh chống lại sự xâm lăng của ma quỷ nơi các tâm hồn, nhất là tâm hồn người trẻ bằng sự Cầu Nguyện, tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể Chúa).
Người viết thư cho học sinh Hà Nội là cậu Giuse Nguyễn Văn Vinh tức cha Vinh, lá thư đầu tiên ấy đề ngày 15 tháng 8 năm 1931 tại Meudon.
Nơi khởi sự Nghĩa Binh Thánh Thể đầu tiên tại miền Bắc là Đại Chủng Viện Saint Sulpice, Liễu Giai, gần Hà Nội do các linh mục Hội Xuân Bích Pháp lãnh trách nhiệm huấn luyện các đại chủng sinh được gởi đến từ khắp các giáo phận. Nhưng thành lập chính thức Hội Nghĩa Binh đầu tiên là ở trường Chủng Viện Thầy Dòng Éucole Puginier Hà Nội do các sư huynh trường Thiện Giáo điều hành, mang mục đích thuần tuý đạo đức; Bước khởi đầu thành lập nào cũng ngỡ ngàng và đầy khó khăn tại một đất nước xa lạ, Nghĩa Binh Thánh Thể (NBTT) đã dần dần chinh phục được cảm tình của Giáo Hội địa phương và lan dần vào các họ đạo để quy tụ các em thiếu nhi thành một Hội Cầu Nguyện, đặc biệt là sùng kính Thánh Thể Chúa. Từ Hàng Giám Mục đến các linh mục đang cai quản ở các điạ hạt và các giáo xứ chung quanh, đều thấy được nét đẹp tinh thần của Hội Nghĩa Binh Thánh Thể và Hội được sự khích lệ và tán thành của Đức Khâm Sứ Dreyer, Hàng Giám Mục và Linh Mục nên không bao lâu Hội đã lan tràn ra thật mau trong thập niên 30 này.


KHỞI ĐẦU VÀ LAN RỘNG
1931, thành lập hai địa phận chủ yếu là Hà Nội và Huế.
· Địa phận Hà Nội:
Hàng Giáo Phẩm và giáo dân trong các địa phận hoan nghênh Phong Trào Nghĩa Binh, các Bề Trên nhiệt thành khuyết khích việc truyền bá Hội, vì thế mà Hội chóng bành trướng đi các nơi lân cận.
Đức Khâm Sứ Dreyer đã biểu dương ý tưởng của Ngài trong một văn thư phúc đáp bằng cách khuyến khích cha Paliard thành lập Hội Nghĩa Binh và chúc lành cho Hội và trong mọi lúc và ở mọi nơi Đức Khâm Sứ vẫn thường nhắc đến ích lợi của Hội Nghĩa Binh đã thành lập trong các xứ. Để hưởng ứng những lời của Đức Khâm Sứ các Giám Mục địa phương đã cố gắng cho thành lập các Hội trong giáo phận của mình, bắt đầu là Đức Cha Gendreau Đông rất vui mừng khi thấy cha Paliard tới xin phép để thành lập Hội Nghĩa Binh và còn cho phép cha xuất bản tờ tạp chí Nghĩa Binh làm cơ quan cổ động.
Đoàn binh đầu tiên khấn vào ngày 1 tháng 12 năm 1931, đây là một ngày đáng ghi nhớ nhất của tất cả các Nghĩa Binh Thánh Thể Việt Nam. Trước mặt 3 Đức Giám Mục, 9 linh mục và tất cả các thầy Dòng, có 25 Nghĩa Binh được nhận vào Hội, trong đó ngoài 25 hội viên ngoại quốc, có 2 hội viên Việt Nam là Giuse Thưởng và Phaolô Khánh.
Đoàn Kẻ Sở chính thức thành lập ngày 25 tháng 5 năm 1932 do Đức Cha Gendreau chủ sự.
Đoàn Kẻ Vôi cùng được thành lập và có quy củ rất rõ ràng, đoàn này lúc ban đầu cũng có giao thiệp với đoàn Fontainebleau bên Pháp.
Đoàn Tân Lạc (thuộc xứ Kẻ Sét) do cha Uzereau thành lập ngày 7 tháng 8 năm 1932, ban đầu cũng giao thiệp với đoàn La Tranche bên Pháp.
Ngày 12 tháng 1 năm 1932 trường xứ Hà Nội có 9 học sinh tuyên hứa: André Phụng, Giuse Trường, Giuse Thắng, Antoine Quý, Thomas Toàn, Phanxicô Xaviê Phổ và Antôn Miên.
Về trẻ nữ, đoàn đầu tiên thành lập ngày 13 tháng 1 năm 1932 tại trường học các bà phước phố nhà Chung, đoàn này gồm 10 hội viên: Maria Quế, Maria Đạt, Anna Phi, Maria Căn, Maria Hồng, Anna Bông, Têrêxa Châm, Agnès Vương, Maria Madalena Mão và Maria Thọ.Tiếp đó đến hai đoàn trẻ nữ tại trường Sainte Marie ngày 4-3-1932 và 24-5-1932 cũng được tuyên thệ. Rồi đến các đoàn khác ở thôn quê được thành lập: Đoàn Đồng Cháy, Đoàn Hà Nội, Đoàn Cổ Liên…


· Địa phận Huế:
Địa phận Huế có Nghĩa Binh vào cuối năm 1931, đoàn Nghĩa Binh đầu tiên là đoàn Ando Tây được thành lập vào cuối năm 1931, còn các đoàn khác thì được thành lập từ năm 1935 như: Đoàn Nước Ngọt, Phủ Cam, Dốc Sơ, Kim Đôi, Xuân Long, Nước Mặn… Điểm nổi bật nhất của địa phận Huế là kỳ Đại Hội Lavang được tổ chức từ ngày 17 đến 19 tháng 8 năm 1938, địa phận đã được hân hạnh tiến cử 400 Nghĩa Binh do cha Giuse Quý đứng đầu đưa đi đại diện và trình bày với Đức Cha địa phận về tình hình Nghĩa Binh. Dựa theo bản tường trình đó thì Nghĩa Binh của địa phận Huế đã có cơ sở vững vàng và hoạt động mạnh.


1932, thành lập tại Phát Diệm và Thanh Hoá
· Địa phận Phát Diệm:
Hội Nghĩa Binh ở địa phận Phát Diệm thành lập từ năm 1932 do chính cha Lương xứ Phát Diệm thành lập cùng có sự nâng đỡ của Đức Cha Nguyễn Bá Tòng rất thương mến Nghĩa Binh, ngày 15/8/1934, Ngài có gởi cho cha chủ nhiệm tạp chí Nghĩa Binh một bức thư cám ơn và chúc lành cho tạp chí cùng Hội Nghĩa Binh Thánh Thể. Được sự ủng hộ ở khắp mọi nơi trong giáo phận, tinh thần đức tin của giáo hữu ngày càng lớn mạnh, nên việc tổ chức hoặc thành lập Hội Nghĩa Binh rất dễ dàng. Hầu hết ở các nơi trong địa phận ai cũng hiểu rằng: cho con cái gia nhập Hội Nghĩa Binh Thánh Thể là một vinh dự cho gia đình.
Về việc huấn luyện tuy chưa được hoàn toàn, nhưng nhiều nơi trong giáo phận đã tổ chức được những Hội Nghị. Hội Nghị đầu tiên được tổ chức vào tháng 12 năm 1937, và quy tụ được gần 3,000 Nghĩa Binh về tham dự để nghe Đức Khâm Sứ Dreyer, Đức Cha Nguyễn Bá Tòng và các cha Tuyên Uý khuyến khích và thôi thúc.


· Địa Phận Thanh Hoá:
Thanh Hoá là một địa phận mới được tách ra khỏi địa phận Phát Diệm, Hội Nghĩa Binh có từ khi còn chung với giáo phận Phát Diệm, nên Hội hoạt động và phát triển dễ dàng, nhất là trong các xứ đạo miền Châu Thổ; Còn miền Châu Lào thì sự gầy dựng rất khó khăn, cho đến năm 1940 số hội viên được khá đông, nhưng sự phát triển không được khả quan như lúc ban đầu.
Điểm nổi bật nhất trong năm này là các tài liệu được các Nghĩa Binh học tập rất phấn khởi.
· Quy luật và tài liệu huấn luyện của Nghĩa Binh Thánh Thể ra đời. Các tài liệu mà Nghĩa Binh Thánh Thể thường dùng để huấn luyện:
· Sacerdos Indosinensis. Sacerdos Indosinensis là một tờ nguyệt san và là cơ quan ngôn luận chính thức của hàng giáo sĩ Ðông Dương do Ðức Giám Mục Costantino Ayuti quốc tịch Italia quyết định cho xuất bản. Tờ báo được giao cho thừa sai Cadière Cả thực hiện và làm chủ nhiệm. Số đầu tiên phát hành nhằm ngày lễ kính Thánh Giuse năm 1927. (Việt Nam giáo sử, Phan Phát Huồn Chương 30 trang 751.)
· Thánh Thể Báo
· Tạp chí Nghĩa Binh
(Hai tài liệu hiếm quý trên hiện đang lưu trữ tại thư viên quốc gia Pháp).
Điểm nổi bật nhất trong thời gian này là: Quy Luật của Hội và Dâng Ngày cho Chúa là việc cốt yếu của Nghĩa Binh Thánh Thể.



Quy Luật của người Nghĩa Binh Thánh Thể của Chúa thì:
1. Sáng nào cũng dâng lót cả ngày mình cho Chúa, chiều nào cũng quỳ gối đọc kinh.
2. Đâu đâu cũng nên gương sáng
3. Ngoan ngoãn vâng lời thảo mến cha mẹ
4. Bị quở la không hờn không giận
5. Hằng sẵn lòng muốn giúp mọi người
6. Học hành lo chăm, bài vở sao cho tấn tới mãi lên
7. Không bạn bè với kẻ hư thân trắc nết, chỉ chơi với cùng bạn hẳn hoi, để khuyên sao cho các anh nhập hội.
8. Chơi vui mà không nô đùa bướng bỉnh.
9. Ở thật thà không dám điêu ngoa gian dối
10. Đeo ảnh hội mà không e xưng mình là giáo hữu
11. Tràng hạt Đức Mẹ vẫn niêm trong mình
12. Dịp hãm mình không hề có bỏ
13. Không đi hội được, vẫn có lời cáo trước
14. Ngày nào cũng đi viếng nhà thờ một chốc, để xin Chúa chúc phúc cho cha mẹ, anh em cùng cả Hội.
15. Siêng năng chiụ lễ hết sức.
(Hostia, Janvier 1932)
Dựa theo Thánh Thể Báo số 122 trang 60 và 61 phát hành năm 1933


Kinh Dâng Ngày:
“Lạy Trái Tim cực Thánh Đức Chúa Giêsu, tôi nhờ Trái Tim cực sạch Đức Bà Maria, mà dâng cho Trái Tim Chúa mọi lời tôi cầu xin, mọi việc tôi làm, mọi sự khó tôi chiụ trong ngày hôm nay, cho được đền vì tội lỗi tôi và cầu nguyện theo ý Chúa khi dâng mình tế lễ trên bàn thờ. Tôi lại dâng các sự ấy cho Trái Tim Chúa có ý cầu nguyện cách riêng theo ý Đức Giáo Hoàng.” (Dựa theo Sacerdos Indosinensis số 3 Jans 1933).
· Về cách ăn mặc: quần áo trắng với Thánh Giá đỏ
1933, Tại giáo xứ Khoan Vĩ, Hà Nội, cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê đã thành lập đoàn Nghĩa Binh Thánh Thể và là người đầu tiên đưa tinh thần và cuộc sống “binh sĩ” đi chinh phục tâm hồn mọi người về cho Chúa.
1934, Đức Khâm Sứ Colomban Dreyer triệu tập Công Đồng Đông Dương tại Hà Nội từ ngày 16/11 đến 6/12/1934, có sự tham dự của Giám Mục tiên khởi Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng để thảo luận và đúc kết Quy Chế Mục Vụ Công Đồng Đông Dương. Trong đó có phần: cổ võ tinh thần sống đạo và truyền đạo của giáo dân qua các Phong Trào Công Giáo Tiến Hành trong đó có Nghĩa Binh Thánh Thể. Công Đồng Đông Dương đã giới thiệu và lên tiếng:
Riêng đối với trẻ con nam nữ, chúng tôi giới thiệu Hội Nghĩa Binh Thánh Thể, vì không có gì có sức hơn để đốt nóng lên trong các tâm hồn thiếu niên, tinh thần và lòng mộ mến việc tông đồ.
(Công Đồng Đông Dương, khoản 372).



1935, Thành lập tại thành phố Vinh, Sài Gòn và Vĩnh Long
· Địa Phận Vinh:
Tại địa phận Vinh thì không như ở các địa phận khác, vì vật chất eo hẹp, giáo dân thì đông mà linh mục coi sóc các giáo xứ thì ít, thành ra việc lập Hội Nghĩa Binh có phần trở ngại. Mặc dù khó khăn khi thành lập các Hội, nhưng cuối cùng cũng có khoảng 30 xứ có Hội Nghĩa Binh dưới quyền của cha Lantrade giám đốc địa phận.

· Địa Phận Sài Gòn:
Đoàn được thành lập đầu tiên vào năm 1931 tại trường Nữ Thánh Phaolô do các dì phước (soeurs) điều hành. Đầu năm 1935, Đức Cha Dumortier (Đượm) có ra thư chung về Công Giáo Tiến Hành, Ngài thúc giục các linh mục địa phương thành lập Hội Nghĩa Binh cho trẻ em và Hội Cầu Nguyện cho người lớn.
Cũng năm 1935, đoàn Nghĩa Binh thứ nhì được thành lập do cha Séminel chủ sự, Ngài chọn ít học sinh sốt sáng, luyện tập kỹ càng một thời gian rồi sau đó chính thức nhận vào Hội ngày 28/6/1935. Từ đó các đoàn khác cũng liên tiếp thành lập như đoàn: Chợ Đũi, Gia Định, Xóm Chiếu, Mỹ Tho, Xuân Hiệp, Cái Mơn…
Năm 1937, đoàn Trung Binh Sài Gòn được hân hạnh đại diện cho tất cả các Hội Nghĩa Binh tại Việt Nam đi tham dự Đại Hội Thánh Thể Thế Giới được tổ chức tại Manila, Phi Luật Tân.
1936, tới Quy Nhơn
· Địa Phận Quy Nhơn:
Địa phận Quy Nhơn có Nghĩa Binh từ năm 1936, Đức Cha Tardieu (Phú) sau khi đi họp Công Đồng từ Hà Nội về, Ngài thúc giục các cha sở các giáo xứ thành lập Hội Nghĩa Binh Thánh Thể. Cha sở Tourane là cha Sanctuaire liền thành lập Hội Nghĩa Binh và các nơi khác cũng đua nhau thành lập: Đông Quả, Gia Hựu, Truông Đốc…


1937, Thái Bình và Bùi Chu và lan rộng đến các địa phận khác.
· Địa Phận Thái Bình:
Hội Nghĩa Binh được chính thức thành lập từ năm 1937, mọi người hưởng ứng Phong Trào này rất mạnh vì đã có quy luật sẵn, nên sự thành lập rất dễ dàng. Tất cả các Hội đều do cha Giám Đốc Địa Phận là cha Faustin Rengel chánh xứ Thái Bình cai quản và điều hành.


· Địa Phận Bùi Chu:
Hội được khởi xướng từ năm 1937, trước nhất do cha Luận thành lập đoàn đầu tiên tại Hầu Dương xứ Lý Nghĩa. Vì sự trẻ trung và mới mẻ của Nghĩa Binh Thánh Thể, nên thầy Giuse Nhạc Vân tự đi quan sát các tổ chức và sinh hoạt của các hội ở Hà Nội, rồi về các giáo xứ cổ động và thành lập tại Kiên Chính, Phú Nhai và nhiều nơi khác nữa.
Riêng tại Ðịa Phận Bùi Chu sự cải thiện lớn nhất của Ðức Cha Đaminh Hồ Ngọc Cẩn là lập Hội Cầu Nguyện và cải biến thành hội đoàn Công Giáo Tiến Hành. (Điều đáng lưu ý: Nghĩa Binh Thánh Thể phát sinh bởi Hội Tông Đồ Cầu Nguyện, nhưng ở Việt Nam thì Hội Tông Đồ Cầu Nguyện lại ra đời sau Hội Nghĩa Binh).
Ngày 15/2/1938, Ðức Cha Đaminh Hồ Ngọc Cẩn ra thư chung lập Hội Nghĩa Binh Thánh Thể, in điều lệ, in bằng cấp cho các cha Tuyên Uý, các quản giáo, các Tông Đồ Nghĩa Binh và sổ kho quân binh. Sau 6 tháng phát động, số nghĩa binh đã tới 23,879 em.



1938, Nam Vang và Bắc Ninh
Cuối năm 1938, địa phận Bắc Ninh mới có Hội Nghĩa Binh Thánh Thể: khởi đầu từ xứ Bắc Ninh rồi lan dần đến các giáo xứ khác. Đa số các giáo dân ở đây đều chưa hiểu rõ về Nghĩa Binh, nên sự thành lập và gây dựng có khó khăn. Sau khi Hội Nghĩa Binh xứ Bắc Ninh được chính thức đi vào hoạt động thì các xứ khác bắt đầu theo sau.
Trong thập niên 30 này, hầu hết trên khắp các địa phận đều đã có những đơn vị Nghĩa Binh Thánh Thể tại các xứ đạo, vì lan rộng quá mau nên mỗi nơi đều có lối sinh hoạt riêng, không có một hệ thống chung nào, nhưng điểm đặc sắc đều giống nhau: cổ võ các em dâng ngày cho Chúa, năng đi dự lễ và rước lễ hằng ngày và làm các giờ chầu Thánh Thể. Làm sao để có các em đi lễ và tham dự đầy đủ các sinh hoạt đạo đức? Hình thức đội với Tông Đồ Đội Trưởng để nhắc nhớ nhau đi lễ mỗi sáng và Phương Pháp Hàng Đội bắt đầu từ đây.
Phong Trào Nghĩa Binh Thánh Thể đang phát triển mạnh mẽ thì những biến chuyển của đất nước và của thế giới bắt đầu gây ảnh hưởng đến các sinh hoạt của Hội.
Năm 1936-1939 đảng Xã Hội Pháp do Thủ Tướng Pháp Daladier cầm đầu, lên nắm chính quyền và để ru ngủ tình thần ái quốc tại Đông Dương, họ đã khuyến khích và đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao cho thanh thiếu niên. Những tiếng còi trên sân vận động đã là những sáng kiến cho các Tông Đồ Đội Trưởng sử dụng để kêu gọi hoặc tập họp các đội viên tham gia những sinh hoạt của nhà thờ... Từ đó, mỗi sáng tiếng còi lại vang dội thúc đẩy lòng đạo đức, đây là một sáng kiến để áp dụng vào phương pháp tự nhiên của Phong Trào cho đến ngày nay mà ta vẫn thường dùng để tập họp đội.


BẢO TOÀN GIỮA ĐAU THƯƠNG
Thập niên 40 là những năm đầy đau thương và loạn lạc cho dân tộc Việt nói chung và nhất là cho anh em miền Bắc. Thực Dân và chính quyền đương đại đã dùng chính sách phân hoá, đất nước Việt Nam bị chia đôi thành miền Bắc và miền Nam. Trận đói Ất Dậu năm 1945 là thảm nạn kinh hoàng cho đất nước. Vì thiếu ăn từ trong lòng mẹ, đói suốt cuộc đời thơ ấu cho nên vào tuổi lên 7 lên 8 các em Thiếu Nhi vẫn còi cọt như một em nhỏ, người lớn thì thường trực sợ hãi, sự bành trướng của Hội Nghĩa Binh Thánh Thể đã bị trì hoãn và giới hạn bởi tình hình chính trị và kinh tế trong nước. Ở giữa những năm đau thương này, Nghĩa Binh Thánh Thể vẫn cố gắng gìn giữ và bảo toàn sự hiện diện của mình trong những sinh hoạt đạo đức thu hẹp.

Năm 1942, trong hoàn cảnh khó khăn, cha Hoàng Cao Chiểu (Tổng Giáo Phận Hà Nội) đã cố gắng cho ra đời tờ Liên Lạc Nghĩa Binh để cung cấp những bài học tu đức, những mẫu chuyện tông đồ của giới trẻ, tin tức sinh hoạt của các đoàn, những niềm vui nho nhỏ trong lúc đất nước trong cảnh khốn cùng, loạn lạc, rất tiếc tờ báo cũng không sống được bao lâu vì sự phân hoá trầm trọng và các biến động của đất nước thường xuyên xảy ra.
Năm 1948, mặc dù đất nước đang trong cảnh lầm than khói lửa chiến tranh, một vài giáo xứ được sự hậu thuẫn của Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn đã tổ chức các Đại Hội:
Ngày 16-6-1948, mở Ðại Hội Nghĩa Binh tại Bùi Chu và Ninh Cường.
Ngày 22-6-1948, mở Ðại Hội Nghĩa Binh tại Tứ Trung và Giáo Lạc.
(Kỷ yếu Ðịa Phận Bùi Chu 1986)

Năm 1949-1954, Chính quyền Việt Minh dùng một số chính sách phân hoá mới làm ly tán các sinh hoạt, gây khó khăn cho các giám mục, linh mục và giáo dân hoạt động mục vụ… Các thiếu nhi tham gia vào những sinh hoạt có tính cách khác tôn giáo,và từ đó Hội Nghĩa Binh Thánh Thể bị giải tán hoặc mang một hình thức sinh hoạt có mầu sắc khác.

Trong thời gian này, về hình thức bên ngoài: quần áo màu trắng dài tay dành cho nam và áo dài và quần dài trắng dành cho nữ, đeo Thánh Giá đỏ (có nơi đeo Thánh Giá màu vàng) phía trước và sau dành cho nam, đeo Thánh Giá trước ngực dành cho nữ, có nơi nam thì đội mũ bêrê còn nữ thì mang lúp trắng.
Vì sự phân hoá trầm trọng trong thời gian này nên “hạt” Nghĩa Binh Thánh Thể nằm yên và khép kín trong lòng đất mẹ để chờ ngày bùng lên.


VƯƠN LÊN TRONG BÃO TỐ
Biến cố 20-7-1954 (chia đôi đất nước), phân nửa miền Bắc sống trong thầm lặng dưới xã hội chủ nghĩa (1954-1975), còn phần nửa miền Nam thuộc tự do. Hai miền cách biệt đã đẩy nhiều đoàn Nghĩa Binh Thánh Thể vào trong phần đất miền Nam, với hoàn cảnh ít xáo trộn hơn ở các vùng khác, Nghĩa Binh Thánh Thể tại Sài Gòn bắt đầu đâm chồi nảy lộc để vươn lên với sự lãnh đạo của cha Phanxicô Nguyễn Hữu Tấn, với tâm hồn nhiệt thành Ngài đã làm cho Hội Nghĩa Binh Thánh Thể lan rộng ra khắp các vùng lân cận như Mỹ Tho, Phú Cường và Xuân Lộc…Với sự trợ giúp của hai Thầy Đại Chủng Viện Xuân Bích là thầy nhạc sĩ Hoài Chiên và thầy Nguyễn Văn Thãnh, cha Tấn đã tổ chức được nhiều khoá huấn luyện Huynh Trưởng và in ấn nhiều tài liệu Huấn Luyện. Cũng trong năm này, tờ báo mang tên Thanh Trúc của Nghĩa Binh Sài Gòn ra đời, rồi đến các tạp chí liên lạc các tài liệu huấn luyện cho Nghĩa Binh được xuất bản tại Huế do các cha Trần Thắng Trung, cha Nguyễn Kim Bính chủ xướng và cha Giacôbê Trần Văn Quyển tại Vĩnh Long cũng cho xuất bản nhiều tài liệu huấn luyện tương tự.

Trong khi đó tại miền Bắc, những vùng đất ít bị ảnh hưởng của chiến tranh, sinh hoạt của Nghĩa Binh cũng bị hạn chế tự do sinh hoạt, hoặc bị đình chỉ hoàn toàn hay nơi nào may mắn lắm thì cũng còn các giờ chầu Thánh Thể. “Hạt giống” Nghĩa Binh Thánh Thể như cố vươn lên bằng những việc lành đạo đức như đi lễ mỗi ngày để cầu nguyện cho hoà bình đất nước, nhưng hình thức đoàn đội thì hoàn toàn biến mất.
Trở lại trong miền Nam, làn sóng di cư 1954 đã mang theo các Đoàn Nghĩa Binh từ miền Bắc được tổ chức lại khi vào Nam, Địa Phận Bùi Chu-Phát Diệm đã cho xuất bản các tài liệu Hội Đoàn Di Cư, trong số đó có Nghĩa Binh Thánh Thể.
Phong Trào khắp nơi khởi sự phát triển mạnh trong thời gian này qua những tiếng gọi nhau vào những buổi sáng của các Đội Trưởng của Nghĩa Binh Thánh Thể cầm cờ thúc nhau đi lễ cho đông đủ để nhận được những vé ưu điểm (Bon Point) là những tấm phiếu chứng nhận sẽ mang lại phần thưởng cho cá nhân hay đội nào xuất sắc, (mãi đến năm 1971, tại các giáo xứ làng quê hẻo lánh vẫn còn sinh hoạt theo hình thức của Nghĩa Binh Thánh Thể dù ở thành phố đã đổi qua Thiếu Nhi Thánh Thể chính cá nhân người viết cũng đã được thưởng một khúc bánh mì vào mỗi buổi sáng Chúa Nhật sau khi tham dự thánh lễ, đây là một hình thức khen thưởng để thúc đẩy các em Thiếu Nhi tham dự thánh lễ đông đủ). Rồi vào những ngày thứ năm hàng tuần Giờ Chầu Thánh Thể cũng được Nghĩa Binh Thánh Thể tham gia tích cực, cuốn sách “Nửa Giở Chầu Chúa” được phát hành ngày 31/8/1955 của Đức Giám Mục Hồ Ngọc Cẩn viết riêng cho Nghĩa Binh đã trở thành cuốn thủ bản về chầu Thánh Thể còn được sử dụng đến ngày nay.



Từ năm 1955-1957, miền Nam Việt Nam người dân tương đối sống trong tự do thanh bình, nên bước tiến của làn sóng Nghĩa Binh Thánh Thể được phát triển mạnh mẽ ở các họ đạo có đông người miền Bắc di cư vào miền Nam, chỉ trong một thời gian ngắn lập nghiệp và gầy dựng lại các giáo xứ, Nghĩa Binh Thánh Thể lại có dịp sinh hoạt trở lại. Và tại giáo xứ Hội Nghĩa Binh Thánh Thể trở thành căn bản trong các sinh hoạt Công Giáo Tiến Hành của giáo xứ, trong khi đó tại miền Bắc Việt Nam các sinh hoạt tôn giáo bị tê liệt hoặc biến dạng.



Năm 1957, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã thấy tầm quan trọng của Hội Nghĩa Binh Thánh Thể và trở thành cần thiết cho đời sống đạo của các thanh thiếu nhi, nên đã ưu ái bổ nhiệm linh mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ làm Tổng Tuyên Uý tiên khởi của Hội Nghĩa Binh Thánh Thể Việt Nam, với cơ cấu và đường hướng mới này, Hội Nghĩa Binh Thánh Thể phát triển rộng lớn hơn nữa và có mặt hầu hết trên các địa phận miền Nam Việt Nam.